Tương lai việc làm

Nền kinh tế mở thay đổi hình thức, phân phối, chất lượng việc làm Việt Nam

Phỏng vấn bà Valentina Barcucci, Chuyên gia Kinh tế Lao động, ILO Việt Nam

Bình luận | Ngày 11 tháng 2 năm 2020

Bà Valentina Barcucci, Chuyên gia Kinh tế Lao động tại ILO Việt Nam

Gần đây chủ đề tương lai việc làm thường được nhắc đến. Đây cũng là chủ đề của Diễn đàn Lao động Quốc gia 2019 do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) và Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) tổ chức vào cuối năm ngoái. Vì sao chủ đề này lại nhận được nhiều sự quan tâm, thưa Bà?


Đây là vấn đề được các nước trên toàn thế giới đặc biệt quan tâm và cũng là mối quan tâm hàng đầu của các đối tác của chúng tôi (Chính phủ, tổ chức của người lao động và người sử dụng lao động) tại Việt Nam.

Chúng ta đang sống trong thời kỳ thanh đổi nhanh chóng khác thường do sự chi phối của nhiều yếu tố như tiến bộ công nghệ và các xu hướng toàn cầu hóa mà toàn cầu đều công nhận. Những yếu tố này sẽ ngày càng gia tăng ảnh hưởng tới các nền kinh tế và thị trường lao động trên toàn thế giới, bao gồm cả Việt Nam và đòi hỏi các thị trường lao động và các thiết chế thị trường lao động cần được nâng cấp. Mặc dù chúng ta không thể dự đoán được tương lai, chúng ta biết rõ một đặc điểm của tương lai này, đó là thay đổi sẽ là một hằng số duy nhất và nó sẽ diễn biến ngày một nhanh hơn. Một ví dụ mà chúng ta thường được nghe nói tới là công nghệ. Dĩ nhiên thay đổi về công nghệ không còn là một điều gì mới mẻ. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là thời gian từ khi một công nghệ mới được phát kiến và thử nghiệm trong phòng thí nghiệm tới khi công nghệ đó được ứng dụng trong nhà máy giờ đây ngắn hơn. Và kể từ khi công nghệ áp dụng trong nhà máy dẫn đến việc thay đổi các dây chuyền và thực tiễn sản xuất cũng như kỹ năng cần có để vận hành sản xuất cũng thay đổi, người ta chú ý nhiều hơn tới việc điều gì sắp diễn ra.

Một câu chuyện tương tự có thể kể đến là hội nhập quốc tế hay toàn cầu hóa. Địa chính trị và các yếu tố khác đang tác động tới xu hướng toàn cầu hóa. Chúng ta thường nghe nói rằng thế giới ngày càng trở nên gắn kết và chắc chắn chúng ta cho rằng Việt Nam cũng có xu hướng này vì Việt Nam ngày càng kết nối hơn, nhưng các xu hướng toàn cầu hóa thực tế phức tạp hơn thế nhiều. Một xu hướng thú vị chúng ta nhận thấy trong suốt năm 2019 là xu hướng toàn cầu hóa chậm lại, đúng như cái cách mà người ta định nghĩa hiện tượng này. Người ta đánh giá địa chính trị là yếu tố then chốt tác động thúc đẩy khu vực hóa (quy mô thương mại khu vực lớn hơn so với thương mại toàn cầu) và công nghệ là một trong những nhân tố tác động tới làn sóng reshoring (quyết định đưa công đoạn sản xuất mà trước đây được di chuyển sang các nước có chi phí thấp hơn về chính quốc). Những thay đổi này có hàm ý sâu sắc đối với các nền kinh tế và thị trường lao động. Việt Nam được nhìn nhận là một quốc gia có mức độ hội nhập quốc tế nổi bật và tham vọng nhanh chóng trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao và tiếp tục hiện đại hóa kinh tế và xã hội hơn nữa. Do vậy, những xu hướng toàn cầu hóa chung và các quyết định về thương mại của các nền kinh tế lớn có liên hệ mật thiết tới Việt Nam.

Những vấn đề khác như thách thức về môi trường hay di cư cũng là những yếu tố thay đổi chắc chắn sẽ có tác động tới nền kinh tế và thị trường lao động của Việt Nam hiện tại và trong tương lai.

Một câu hỏi khác đặt ra là tại sao chúng ta lại chọn chủ đề của Diễn đàn lao động 2019 là “Lựa chọn của Việt Nam”.

Chắc chắn người ta sẽ lo ngại về tác động mà các xu hướng hay các vấn đề mà tôi vừa nhắc tới mang lại. Tại sao vậy? Đó là bởi vì như tôi đã nói, thay đổi về công nghệ, toàn cầu hóa và sự hủy hoại môi trường là những yếu tố lớn dẫn đến thay đổi. Đây là những thay đổi mang tính toàn cầu và các quốc gia có thể cảm thấy họ không thể kiểm soát được sự thay đổi này. Tuy nhiên, những thay đổi này sẽ tác động lớn tới từng quốc gia riêng lẻ. Và điều này tạo một tâm lý vô vọng. Tâm lý này cũng có thể thông cảm được nhưng có lẽ là bị đặt nhầm chỗ bởi vì nó xuất phát từ giả định các quốc gia chấp nhận tác động của sự thay đổi toàn cầu một cách thụ động. Nhưng sự thật không phải như vậy.

Cùng với Bộ LĐTBXH và các đối tác xã hội (là tổ chức của người lao động và người sử dụng lao động) tại Việt Nam, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng Việt Nam vẫn có cơ hội lựa chọn những chính sách có thể định hình tác động của các yếu tố toàn cầu này và có thể tận dụng những cơ hội mà chúng mang lại.
Ví dụ như, Bộ luật Lao động mới được Việt Nam thông qua gần đây đã đánh dấu sự khởi đầu của một chương mới “hướng tới tương lai” cho thế giới việc làm của Việt Nam. Việt Nam đã lựa chọn nắm bắt các cơ hội mà hội nhập toàn cầu quốc tế mang lại về tiếp cận thị trường bằng cách xây dựng chính sách pháp luật tiệm cận hơn với các Nguyên tắc và Quyền Cơ bản trong Lao động của ILO. Ví dụ có thể kể đến là việc giúp người lao động có tiếng nói mạnh mẽ hơn trong các doanh nghiệp.

Như Bà đã nhận xét, Việt Nam có một nền kinh tế mở đối với thương mại và hội nhập quốc tế. Tác động của nền kinh tế mở đối với việc làm là gì, thưa Bà?


Đúng là, kể từ công cuộc Đổi mới, độ mở đối với thương mại của Việt Nam ngày càng càng tăng đều. Nếu xét đến lĩnh vực thương mại từ góc độ tỷ trọng GDP thì từ năm 1986, chúng ta thấy rằng tỷ trọng này đã và đang tăng trưởng đều, từ mức khoảng 20% tới hơn 180% vào năm 2018. Sự ổn định về xu hướng tăng trưởng cho thấy quyết tâm chính sách mạnh mẽ. Sự mở cửa của Việt Nam và hiệp định thương mại với ASEAN, hiệp định thương mại song phương với Mỹ và việc gia nhập WTO diễn ra trong bối cảnh khả năng cạnh tranh của nền kinh tế của Việt Nam cũng tăng lên – điều đó đồng nghĩa với việc xuất khẩu trở nên ngày càng đa dạng và đòi hỏi vốn kiến thức lớn hơn.

Mặc dù thương mại giúp tăng cường mức độ tinh xảo của hàng hóa cũng như mức độ phức tạp của công việc và thúc đẩy tăng trưởng thì tỷ lệ lợi nhuận mà người lao động được hưởng vẫn còn tương đối hạn chế."

Bà Valentina Barcucci, Chuyên gia Kinh tế Lao động tại ILO Việt Nam
Điều này có hàm ý gì đối với thị trường lao động? Trước tiên, điều này nghĩa là phân phối lại việc làm từ các lĩnh vực ít phục vụ xuất khẩu sang các lĩnh vực định hướng xuất khẩu. Đầu những năm 2000, người Việt Nam hầu hết làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Sau đó, khi nền kinh tế của Việt Nam mở cửa thương mại, những lĩnh vực “mới” liên quan nhiều hơn tới thương mại và xuất khẩu bắt đầu tuyển dụng nhiều lao động hơn trong khi tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp ngày càng giảm. Dù nông nghiệp vẫn là lĩnh vực xuất khẩu và tiếp tục tăng trưởng trong tổng giá trị xuất khẩu theo thời gian nhưng đã bị thu hẹp về mặt tương đối khi có sự tham gia của các lĩnh vực khác. Năm 2018, số người Việt Nam làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp chưa đến 40%.

Thứ hai, một tác động rất quan trọng của thương mại là sự gia tăng mức độ phức tạp về kinh tế của toàn bộ nền kinh tế đồng nghĩa với việc Việt Nam đang tạo ra những việc làm tương đối phức tạp hơn. Nếu nhìn vào mức độ tăng trưởng việc làm trong hai thập kỷ qua, chúng ta thấy rằng trên thực tế, tăng trưởng chủ yếu tập trung ở những việc làm đòi hỏi tay nghề trung bình và một số lượng hạn chế các công việc đòi hỏi tay nghề cao.

Thứ ba, điều đó cũng thể hiện sự chuyển dịch về hình thức và chất lượng việc làm. Năm 2018, 44% lao động Việt Nam là người lao động làm công ăn lương. Tỷ lệ này năm 2009 chỉ là 33%. Mười năm trước đó nữa thì tỷ lệ này chỉ dưới 20%. Đây là mức tăng trưởng rất nhanh và lĩnh vực thương mại chắc chắn đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng này, đó là một kết quả tích cực. Là một người làm công ăn lương, theo đúng tên gọi, thì được hưởng lương, một nguồn thu nhập tương đối đáng tin cậy. Người làm công ăn lương thì cũng được hưởng phúc lợi xã hội, chúng ta gọi đây là “việc làm chính thức”. Về một phương diện nào đó thì đây là câu chuyện của Việt Nam – chúng ta thấy rằng tỷ lệ việc làm phi chính thức đang giảm đi trên toàn thị trường nói chung. Tuy nhiên, ở Việt Nam phần lớn việc làm vẫn là phi chính thức. Khoảng 13 triệu người lao động ở Việt Nam không phải là đối tượng bao phủ của chương trình bảo hiểm xã hội bắt buộc (hay bất cứ chương trình nào thuộc lĩnh vực này), như vậy họ là lao động phi chính thức.

Vì vậy, mặc dù thương mại chắc chắn đã và đang là động lực thúc đẩy một số cải thiện tương đối về chất lượng việc làm của Việt Nam ví dụ như bằng cách hướng tới thúc đẩy chính thức hóa, các chỉ số khác dường như cho thấy thương mại cũng có thể kéo theo điều kiện làm việc khó khăn hơn. Ví dụ, các đánh giá cấp vĩ mô ban đầu của ILO cho thấy các lĩnh vực liên quan nhiều đến thương mại dường như có thời giờ làm việc dài hơn các lĩnh vực phi thương mại. Có thể giải thích rằng đây là một tác động của cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế.

Một chỉ số khác mà chúng ta có thể sử dụng để xem xét tác động của thương mại đến chất lượng việc làm là tiền lương. Một đánh giá ban đầu của ILO xem xét tiền lương trong các lĩnh vực liên quan nhiều đến thương mại cho thấy tiền lương trong các lĩnh vực này cao hơn các lĩnh vực phi thương mại (với cùng mức độ kỹ năng yêu cầu). Tuy nhiên, chúng ta có thể nói rằng mặc dù thương mại giúp tăng cường mức độ tinh xảo của hàng hóa cũng như mức độ phức tạp của công việc và thúc đẩy tăng trưởng thì tỷ lệ lợi nhuận mà người lao động được hưởng vẫn còn tương đối hạn chế. Tỷ trọng GDP khi chia đến tay người lao động Việt Nam dưới hình thức tiền lương và các chế độ bảo trợ xã hội đang giảm dần. Nói cách khác là tiền lương của người lao động trong các lĩnh vực liên quan nhiều đến thương mại có tăng lên, nhưng mức tăng đó so với những gì họ đóng góp vào thịnh vượng kinh tế tổng thể thì ngày càng thấp hơn.

Vậy thì ý nghĩa của tất cả những điều này là gì? Điều này có nghĩa là thương mại có tác động mạnh mẽ và tác động đó có thể được lượng hóa, đối với thị trường lao động Việt Nam. Thương mại thực sự định hình các ngành nghề và loại hình việc làm. Thương mại mang lại ích lợi đáng kể về chất lượng việc làm. Thế nhưng thương mại cũng dẫn đến những thách thức chẳng hạn như việc làm thế nào đáp ứng yêu cầu cạnh tranh quốc tế mà người lao động đang phải đối diện ở những mức độ khác nhau. Chính phủ Việt Nam đang hoạt động trên nhiều mặt trận (bảo trợ xã hội, phát triển kỹ năng, việc làm và dĩ nhiên là cả việc Việt Nam mới đây đã thông qua Bộ luật Lao động mới) có thể chi phối tác động của thương mại đối với người lao động Việt Nam bằng cách tăng cường phân phối lại cơ cấu lực lượng lao động, trang bị cho lực lượng lao động những kỹ năng tốt hơn, cho phép người lao động có tiếng nói mạnh mẽ hơn trong các doanh nghiệp. Đây chính là minh chứng về việc mặc dù thương mại là một yếu tố toàn cầu và mạnh mẽ, cách thức Việt Nam tham gia vào lĩnh vực thương mại thế nào và tác động của nó tới người lao động ra sao là lựa chọn của Việt Nam.

Chúng ta thường nghe thấy rằng thị trường lao động Việt Nam thiếu kỹ năng cần thiết, rằng Việt Nam cần thêm nhiều nhân lực kỹ năng cao nếu chúng ta muốn phát triển hơn nữa và trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình cao. Điều này có đúng không, thưa Bà?


Khái niệm “kỹ năng cần thiết” là vấn đề của cung và cầu và liệu cung và cầu có phù hợp hay không.

Việc làm có mức độ phức tạp nhất định. Những công việc như nhà quản lý hay chuyên gia (bao gồm bác sỹ, kỹ sư…) liên quan tới việc sản sinh kiến thức và áp dụng kiến thức. Họ cần phải có vốn kiến thức lớn để đảm nhiệm công việc. Chúng ta gọi đây là những việc làm “chuyên môn cao”. Ngược lại chúng ta cũng có những việc làm đòi hỏi “tay nghề thấp” chỉ yêu cầu trình độ học vấn cơ bản là có thể đảm nhiệm được công việc. Một nền kinh tế lúc nào cũng bao gồm các công việc chuyên môn cao, chuyên môn tay nghề trung bình và tay nghề thấp và mỗi cấp độ chuyên môn tay nghề đều cần thiết. Những nền kinh tế tiên tiến hay nền kinh tế tri thức thường có tỷ trọng việc làm đòi hỏi chuyên môn tay nghề cao lớn hơn so với những nền kinh tế mà công nghiệp hóa còn hạn chế. Chúng ta gọi đây là khía cạnh cầu về kỹ năng.

Tiếp đến là khía cạnh cung. Cung là người lao động được trang bị kiến thức và kỹ năng. Chúng ta đánh giá cấp độ kiến thức và kỹ năng của người lao động bằng cách nào? Có một cách là nhìn vào trình độ học vấn cao nhất mà người lao động đạt được, cách làm này giúp chúng ta biết được cấp độ kiến thức và kỹ năng của họ.

Ngày nay cung không phải lúc nào cũng gặp cầu. Nói cách khác, thực tế một công việc đòi hỏi lượng kiến thức và kỹ năng nhất định không thể hiện rằng người đảm nhận công việc đó đạt tới cấp độ kiến thức và kỹ năng đó. Chẳng hạn như một doanh nghiệp có một số vị trí vận hành máy móc đòi hỏi trình độ giáo dục nghề nghiệp cấp trung học hay trên trung học. Giả sử quản lý doanh nghiệp không tìm được người lao động có trình độ phù hợp. Trong trường hợp đó, nhà quản lý có thể quyết định thuê lao động có trình độ thấp hơn như có trình độ văn hóa phổ thông nhưng không được đào tạo nghề. Vấn đề ở đây là trình độ không phù hợp, nghĩa là trình độ của người lao động không đáp ứng được cấp độ mà việc làm đòi hỏi. Dù thế nào thì người lao động vẫn đảm nhiệm công việc đó nhưng có thể hiệu suất kém hơn, mức độ hiệu quả thấp hơn người có trình độ phù hợp.

Vì sao điều này đúng trong trường hợp của Việt Nam?


Thứ nhất, cầu về kỹ năng ở Việt Nam là gì? Hơn nửa số việc làm của Việt Nam đòi hỏi kỹ năng trung bình (nếu đánh giá dựa trên tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp ISCO-08). Khoảng 36% việc làm đòi hỏi tay nghề thấp và 12% đòi hỏi chuyên môn cao. Tính trung bình, một quốc gia có thu nhập trung bình thấp (quốc gia ở mức độ trung bình có cùng mức thu nhập như Việt Nam) có tỷ trọng việc làm tay nghề thấp lớn hơn Việt Nam và có tỷ trọng việc làm đòi hỏi kỹ năng trung bình thấp hơn. Có thể nói rằng đây là điều tốt, bởi việc làm tay nghề thấp thường đi kèm với các chỉ số chất lượng việc làm kém hơn. Ở Việt Nam, tỷ trọng việc làm kỹ năng trung bình là cao nhất, còn tỷ trọng việc làm chuyên môn cao ở mức khá thấp.

Tuy nhiên, Việt Nam không muốn tiếp tục duy trì mức thu nhập hiện tại. Mục tiêu Việt Nam đặt ra là trở thành nước thu nhập trung bình cao vào năm 2030. Hiện nay, vấn đề là các nước thu nhập trung bình cao tính trung bình đều có tỷ trọng việc làm chuyên môn cao ở mức gần gấp đôi Việt Nam. Tất nhiên đây là tỷ trọng trung bình và nếu chúng ta xét đến từng nước cụ thể, chúng ta có thể thấy sự khác biệt giữa các nước đó. Nhưng điều đáng lưu ý ở đây là tỷ trọng việc làm chuyên môn cao ở Việt Nam còn thấp so với tỷ trọng trung bình các nước thu nhập trung bình thấp. Tóm lại, khi nói đến nghề nghiệp thì Việt Nam được đánh giá là có tỷ trọng khá lớn loại “trung bình” và một số lượng nhỏ loại “chuyên môn cao”.

Vậy người lao động có kiến thức, kỹ năng và trình độ học vấn đáp ứng nhu cầu hay không? Cần nhớ chúng ta vừa nói rằng thực tế Việt Nam có số lượng việc làm đòi hỏi tay nghề “trung bình” tương đối lớn. Thực tế là hơn nửa số lao động đang đảm nhiệm các công việc đòi hỏi tay nghề trung bình không đáp ứng được yêu cầu về trình độ. Họ có trình độ chuyên môn thấp hơn. Điều đó có nghĩa là ví dụ tôi nêu ở trên (nhà quản lý thuê người vận hành máy móc chỉ có trình độ học vấn cơ bản) là tình huống thường xuyên xảy ra. Đa phần các trường hợp là như vậy.

Với những việc làm đòi hỏi chuyên môn tay nghề cao thì việc cung không gặp cầu ít xảy ra hơn. Đa phần người lao động đang đảm nhiệm các công việc chuyên môn tay nghề cao (nhà quản lý, chuyên gia, kỹ thuật viên) đều có trình độ học vấn phù hợp.

Tóm lại, chúng ta thấy có sự bất tương quan giữa cấp độ kỹ năng mà công việc nhất định đòi hỏi với trình độ học vấn của người lao động đang đảm nhận công việc đó. Hiện tượng này khá rõ ràng ở các công việc đòi hỏi tay nghề trung bình, đại diện cho hơn một nửa tổng số việc làm của Việt Nam. Hiện tại, vấn đề ít xảy ra đối với việc làm chuyên môn tay nghề cao. Tuy nhiên, khi nên kinh tế tiếp tục tạo thêm nhiều việc làm đòi hỏi tay nghề trung bình và chuyên môn tay nghề cao thì điều này có thể thay đổi và sự bất tương quan có thể sẽ gia tăng.

Tôi không nói rằng điều này là không tốt nhưng có khoảng cách về cơ cấu giữa tốc độ nhu cầu của thị trường lao động và tốc độ của giáo dục đào tạo. Nhu cầu về kỹ năng mới xuất hiện rất nhanh trên thị trường lao động và nghề nghiệp mới (dù có được chuẩn hóa hay không) vẫn đang được tạo ra. Cần có thời gian để hệ thống giáo dục có thể đưa ra biện pháp ứng phó với tình huống này.

Chúng ta hay nói rằng phụ nữ Việt Nam phải gánh nhiều gánh nặng cùng một lúc, đó là thiệt thòi của người phụ nữ khi tham gia thị trường lao động. Ý kiến của Bà về điều này thế nào?


Tôi khá đồng tình với nhận định này. Gánh nặng mà người phụ nữ phải gánh vác bao gồm trách nhiệm với công việc và trách nhiệm với gia đình. Trong công việc, phụ nữ Việt Nam thuộc nhóm năng động nhất trên thế giới. “Năng động” trong ngữ cảnh này nghĩa là “tham gia thị trường lao động” bao gồm cả việc được tuyển dụng hay chủ động tìm kiếm việc làm. Trên toàn cầu, 47,9% phụ nữ trong độ tuổi lao động tham gia thị trường lao động, thấp hơn con số này ở nam giới gần ba mươi điểm phần trăm (74,9%). Bức tranh của Việt Nam lại hoàn toàn khác biệt. Trong quý đầu năm 2019, 71,1% phụ nữ trong độ tuổi lao động tham gia thị trường lao động. Chênh lệch với tỷ lệ này của nam giới (82,4%) chỉ là 11,3 điểm phần trăm.

Ở nhà, họ cũng đặc biệt năng động và gánh vác phần lớn trách nhiệm trong gia đình. Kể từ năm nay chúng ta có thể đo lường được chỉ số này. Điều tra lao động việc làm của Việt Nam đã đưa vào bảng hỏi những câu hỏi về việc phụ nữ và nam giới sử dụng thời gian của họ như thế nào. Thay đổi này giúp cho cuộc điều tra lao động việc làm của Việt Nam phù hợp với một số các tiêu chuẩn quốc tế mới nhất. Chẳng hạn như những kết quả ban đầu sử dụng phương pháp này ở Việt Nam cho thấy trong đầu năm 2019, phụ nữ dành 11 giờ một tuần để nấu nướng trong khi nam giới chỉ dành 0,7 giờ cho việc này. Phụ nữ đi làm dành gần 39 giờ một tuần cho công việc, cộng thêm 23,5 giờ làm việc nhà. Nam giới làm việc 40 giờ một tuần nhưng chưa đến 11 giờ làm việc nhà. Đây là cách lượng hóa trách nhiệm gấp đôi mà phụ nữ Việt Nam phải gánh vác.

Theo kinh nghiệm của tôi, hiện có quá nhiều các cuộc thảo luận ở cấp quốc gia về bất bình đẳng giới vẫn mô tả phụ nữ là nhóm đối tượng cần được bảo vệ thay vì là được trao quyền."

Bà Valentina Barcucci, Chuyên gia Kinh tế Lao động tại ILO Việt Nam
Tôi thấy tình trạng này có một số vấn đề. Thứ nhất, phụ nữ hầu như cũng có khả năng tham gia thị trường lao động như nam giới hay thời gian làm việc của họ cũng tương đương với nam giới, nhưng phụ nữ ở Việt Nam lại không được hưởng các cơ hội bình đẳng. Chất lượng việc làm mà phụ nữ hiện đảm nhận minh chứng cho nhận định này. Tỷ lệ phụ nữ đóng vai trò lao động gia đình chiếm gần 65% mà đây là loại hình việc làm được coi là dễ bị tổn thương nhất. Lao động thuộc loại hình này đóng góp vào các hoạt động tạo thu nhập của hộ gia đình được định nghĩa là lao động phi chính thức và thường không được trả lương. Điều này cũng phần nào dẫn tới việc phụ nữ phải gánh vác trách nhiệm gấp đôi. Phụ nữ khó có thể vừa phải nuôi dạy con, gánh vác phần lớn trách nhiệm chăm sóc gia đình, lại vừa theo đuổi sự nghiệp hay dành thời gian bồi dưỡng kỹ năng. Chế độ hỗ trợ thai sản với vai trò đảm bảo vai trò sinh sản của phụ nữ không đồng nghĩa với việc mang lại cơ hội bình đẳng cho họ, mà cũng không phải ai cũng được hưởng chế độ này. Những phụ nữ thuộc đối tượng được tham gia chương trình bảo hiểm xã hội theo luật định được hưởng chế độ hỗ trợ thai sản khá tốt. Ngược lại, phụ nữ không thuộc đối tượng được bảo vệ bởi chương trình bắt buộc bao gồm cả người lao động phi chính thức thì không được hưởng chế độ hỗ trợ thai sản.

Thực tế là phụ nữ phải phân chia sức lực cũng như thời gian giữa công việc và gia đình có lẽ là lý do họ không tham gia các vị trí công việc có chức năng ra quyết định. Ví dụ như, tỷ lệ phụ nữ đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo chính trị từ trung ương đến địa phương trong 30 năm qua chỉ tăng rất chậm, tới nay mới đạt mức khoảng một phần tư. Có thể nói rằng, sự mất cân đối về tỷ lệ phụ nữ trong các cơ quan nhà nước then chốt có thể ảnh hưởng tới khả năng Chính phủ Việt Nam thực sự hoạch định được các chính sách đáp ứng giới. Các doanh nghiệp cũng không nằm ngoài xu hướng này. Tỷ lệ phụ nữ ở các vị trí quản lý năm 2018 là 27,8% bao gồm các vị trí từ quản lý cấp trung đến cấp cao. Nếu chỉ nhìn vào các vị trí hàng đầu thì tỷ lệ này là rất nhỏ.

Theo kinh nghiệm của tôi, hiện có quá nhiều các cuộc thảo luận ở cấp quốc gia về bất bình đẳng giới vẫn mô tả phụ nữ là nhóm đối tượng cần được bảo vệ thay vì là được trao quyền. Bộ Luật Lao động mới đã có những bước đi đúng hướng. Bộ Luật Lao động đã bỏ các điều khoản ngăn cản phụ nữ tham gia một số công việc nhất định và đã có những sắp xếp để dần dần thu hẹp khoảng cách tuổi nghỉ hưu giữa phụ nữ và nam giới mặc dù không hoàn toàn xóa bỏ khoảng cách này. Thái độ bảo vệ này thể hiện sự nhạy cảm giới và cần thiết, xét đến những trách nhiệm gấp đôi mà phụ nữ phải gánh vác. Tuy vậy, còn quá ít hành động được thực hiện nhằm giảm gánh nặng cho phụ nữ ngay từ đầu để đảm bảo rằng khoảng thời gian 35 giờ mỗi tuần cần dành để làm việc nhà được chia đều giữa phụ nữ và nam giới, và loại bỏ tư tưởng phụ nữ được sinh ra với thiên chức chăm sóc gia đình. Đây là tư tưởng lỗi thời đối với một quốc gia ngày càng tham gia nhiều hơn vào quá trình hiện đại hóa kinh tế xã hội và việc đầu tư trọn vẹn vào công tác đánh giá tương lai việc làm sẽ mang lại tiến bộ bao trùm và bền vững.

Theo Bà, đâu là ưu tiên các nhà hoạch định chính sách Việt Nam cần chú trọng trong năm 2020 để tạo nên một tương lai việc làm tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người?

Theo tôi đánh giá thì ưu tiên của Chính phủ trong lĩnh vực việc làm và lao động đã khá rõ ràng. Bế mạc Diễn đàn Lao động của Việt Nam về Tương lai Việc làm, Bộ LĐTBXH đã nêu rõ phát triển kỹ năng, quan hệ lao động và bảo trợ xã hội là ba lĩnh vực ưu tiên về chính sách cho tương lai gần. Việt Nam cũng đang theo đuổi một đề án quan trọng nhằm phê chuẩn công ước số 105 của ILO về Xóa bỏ Lao động Cưỡng bức vào năm 2020. Trong số những ưu tiên này, Bộ Luật Lao động được thông qua tháng 11 vừa rồi đã đưa ra nhiều thay đổi và tiến bộ đòi hỏi công tác làm chính sách năm 2020 phải làm thế nào để các quy định của Bộ Luật Lao động “được triển khai”, nghĩa là mang tính ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày của người lao động. Vậy nên năm 2020 sẽ là một năm thực sự bận rộn đối với các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam!

Tuy nhiên, chỉ có cam kết của Chính phủ và các nhà lập pháp thì chưa đủ để đảm bảo các chính sách mới được chuyển tải thành một tương lai tốt đẹp hơn cho mọi phụ nữ và nam giới ở Việt Nam. Đại diện của người sử dụng lao động và người lao động đóng vai trò quan trọng trong việc phổ biến những chính sách đó bởi chức năng của họ gần gũi với nơi làm việc thực tế. Ví thử như vấn đề thúc đẩy bình đẳng giới chẳng hạn. Việt Nam có thể ban hành một nghị định về vấn đề này và thực thi nghị định đó. Tuy nhiên, việc thay đổi hoàn toàn tư duy tại nơi làm việc, sự thay đổi trong quan niệm truyền thống cho rằng lãnh đạo phải là nam giới, phụ nữ làm lãnh đạo chỉ là trường hợp ngoại lệ chỉ có thể thay đổi nếu các tổ chức của người sử dụng lao động và người lao động ủng hộ và đón nhận thay đổi này. Bản thân họ cần trở thành tấm gương và đảm bảo thành viên của mình sẽ thay đổi về tư duy từ lối nghĩ phụ nữ cần phải được bảo vệ hướng đến tư duy đảm bảo họ có cơ hội bình đẳng và có sức mạnh để tự quyết định lựa chọn cho bản thân và dẫn dắt các phụ nữ khác. Thêm vào đó, thay đổi chỉ có thể diễn ra nếu các cá nhân tại nơi làm việc mong muốn, tự đặt ra mục tiêu này và thúc đẩy thay đổi mỗi ngày trong những lựa chọn dù lớn dù nhỏ mà họ đưa ra.

Tương tự với nhiều các lĩnh vực khác đóng vai trò then chốt đối với sự phát triển kinh tế và xã hội Việt Nam.

Không phải tự nhiên mà tôi lựa chọn đưa ra ví dụ về bình đẳng giới. Đây là lĩnh vực mà tôi nhận thấy sẽ có nhiều cơ hội cho Việt Nam. Hiện nay có rất nhiều chỉ số về bình đẳng giới, như đã đề cập ở trên, chỉ ra sự bất bình đẳng giới còn tồn tại đáng kể trong thế giới việc làm của Việt Nam. Tuy nhiên, số lượng phụ nữ tham gia vào thị trường lao động của Việt Nam thực sự nổi bật. Nếu Việt Nam quyết tâm giải quyết vấn đề bất bình đẳng về cơ hội giữa phụ nữ và nam giới, Việt Nam hoàn toàn có khả năng tạo dựng một mô hình đặc thù cho riêng Việt Nam về bình đẳng giới dựa trên mức độ tham gia của phụ nữ vào các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, còn rất nhiều việc phải làm để xóa bỏ tư duy của con người (nam giới và nữ giới) về sự phân công vai trò truyền thống cho rằng thiên chức của phụ nữ là chăm sóc gia đình. Như tôi đã nói, điều này không phù hợp với một xã hội hiện đại mà Việt Nam hướng đến và nghiên cứu cho thấy đó là cả một sự lãng phí về tài năng và tiến bộ xã hội tiềm tàng mà phụ nữ có thể mang lại.

Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về thị trường lao động Việt Nam, muốn thử tìm hiểu những vấn đề ưu tiên là gì, hãy tìm đọc ấn phẩm mới của chúng tôi “Việc làm Thỏa đáng và các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Việt Nam”. Bạn có thể tìm đọc ấn phẩm này trên trang web của ILO Việt Nam. Nếu bạn có các câu hỏi như tỷ lệ lao động Việt Nam là bao nhiêu? Số lượng người thất nghiệp ở Việt Nam? Các loại hình công việc là gì? Bao nhiêu người hiện đang làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp hay bao nhiêu tham gia lĩnh vực sản xuất? Chất lượng việc làm ở Việt Nam hiện nay thế nào? Nhưng quan trọng nhất là nếu bạn quan tâm xem có gì mới trên thị trường lao động, điều gì đang thay đổi, hãy tìm đọc ấn phẩm này. Chìa khóa để nắm bắt được tương lai việc làm có thể ở khía cạnh nào đó bắt nguồn từ quá khứ và từ những xu hướng tạo nên đặc tính của thế giới việc làm của Việt Nam cho đến nay.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời Chúc mừng năm mới tới đất nước Việt Nam!